TỤNG KINH THIỆN SINH
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tán Phật
Xinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như Bắc đẩu
Xin quay về nương tựa
Bậc Thầy của nhân thiên.
Sen quý nở đài giác ngộ,
Hào quang chiếu rạng mười phương,
Trí tuệ vượt tầm pháp giới,
Từ bi thắm nhuần non sông,
Vừa thấy dung nhan Điều Ngự,
Tâm thành trọn lòng kính dâng,
Hướng về tán dương Tam Bảo,
Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng. (O)
Dâng Hương
Hương đốt khói trầm xông ngát
Kết thành một đóa tường vân,
Đệ tử đem lòng thành kính
Cúng dường chư Phật mười hương
Giới luật chuyên trì nghiêm mật
Công phu thiền định tinh cần
Tuệ giác hiện dần quả báu
Dâng thành một nén tâm hương.
Chúng con kính dâng hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến lên chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng, chư hộ pháp, thiện thần, chứng minh lòng thành kính của chúng con. (O)
Đảnh Lễ Tam Bảo
Ðệ tử nương nhờ Tam Bảo
Trên con đường học đạo
Biết Tam Bảo của tự tâm
Nguyện tu học chuyên cần
Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (Chuông)
Phật là thầy chỉ đạo
Bậc tỉnh thức vẹn toàn
Tướng tốt đoan trang
Trí và bi viên mãn.
Đệ tử chúng con chí tâm kính lễ chư Phật thường trú trong ba đời và mười phương. (Chuông, 1 lạy)
Pháp là con đường sáng
Dẫn người thoát cõi mê
Ðưa con trở về
Sống cuộc đời tỉnh thức.
Đệ tử chúng con chí tâm kính lễ chư Pháp thường trú trong ba đời và mười phương. (Chuông, 1 lạy)
Tăng là đoàn thể đẹp
Cùng đi trên đường vui
Tu tập giải thoát
Làm an lạc cuộc đời.
Đệ tử chúng con chí tâm kính lễ chư Tăng thường trú trong ba đời và mười phương. (Chuông, 1 lạy)
KHAI KINH
Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên nay được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (O)
TỤNG KINH THIỆN SINH
Trường A Hàm, (Dīrghāgama), Phần II, Kinh số 16, và Kinh Bộ Kinh (Dīgha Nikaya), Kinh số 31
By Thích Trừng Sỹ
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật cư trú ở tu viện Trúc Lâm, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, đắp y bưng bát đi vào thành Vương Xá khất thực. Khi thấy chàng Thiện Sinh,[1] con trai của vị trưởng giả, cứ mỗi buổi sáng, vâng theo lời cha dặn, tắm rửa sạch sẽ, ăn mặt chỉnh tề, chấp tay lễ lạy phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương Trên, và phương Dưới, Đức Phật ân cần dạy bảo Thiện Sinh về các ý nghĩa của việc lễ bái sáu phương như sau:
1. Phương Đông tượng trưng cho cha mẹ và con cái
I. Bổn phận con cái
Này Thiện Sinh, đối với cha mẹ, người con có năm bổn phận:
Một là cung phụng các nhu cầu vật chất và tinh thần cần thiết cho cha mẹ. Hai là giúp làm các việc khó nhọc cho cha mẹ. Ba là bảo vệ danh giá dòng họ và truyền thống gia đình. Bốn là bảo vệ tài sản thừa tự. Năm là có trách nhiệm lo tang lễ đúng pháp khi cha mẹ qua đời.
II. Bổn phận cha mẹ
Đối với con cái, cha mẹ cũng có năm bổn phận:
Một là dạy con làm lành lánh ác. Hai là khuyên con thân cận với thầy lành, bạn tốt, và môi trường thiên nhiên. Ba là gợi ý và chọn nghề thích hợp cho con. Bốn là dựng vợ gã chồng tốt đẹp cho con. Năm là trao của cải thừa tự và quyền lợi cho con đúng thời.
Lễ lạy phương Đông theo lời Đức Phật dạy có nghĩa là con cái có bổn phận hiếu kính phụng dưỡng cha mẹ và cha mẹ cũng có trách nhiệm nuôi nấng và dạy dỗ con cái nên người tài đức. (O)
2. Phương Tây tượng trưng cho vợ và chồng
III. Bổn phận người vợ
Này Thiện Sinh, đối với chồng, người vợ có năm bổn phận: Một là chăm lo việc nhà gọn gàng và ngăn nắp. Hai là niềm nở tiếp đón bạn bè và thân quyến bên chồng. Ba là chung thủy với chồng. Bốn là giữ gìn của cải vợ chồng làm ra. Năm là làm các công việc gia đình nhanh nhẹn và khéo léo.
IV. Bổn phận người chồng
Đối với vợ, người chồng cũng có năm bổn phận:
Một là thương yêu vợ. Hai là học hạnh lắng nghe và nói lời ái ngữ với vợ. Ba là tin tưởng vợ. Bốn là biết mua quà tặng sinh nhật cho vợ. Năm là giao quyền hành và cung cấp những thứ cần dùng cho vợ.
Lễ lạy phương Tây theo lời Đức Phật dạy có nghĩa là vợ chồng sống chung thủy, biết nhường nhịn, và tin cậy lẫn nhau để xây dựng hạnh phúc và mái ấm cho gia đình. (O)
3. Phương Nam tượng trưng cho thầy cô giáo và học trò
V. Bổn phận học trò
Này Thiện Sinh, đối với thầy cô giáo, người học trò có năm bổn phận:
Một là cung kính, lễ phép, và sẵn lòng giúp thầy cô làm những việc cần thiết. Hai là biết vâng lời thầy cô dạy bảo. Ba là biết lắng nghe và học hỏi những điều hay nơi thầy cô. Bốn là phải có tinh thần cầu học với thầy cô về những gì mình chưa biết. Năm là biết thực tập, ứng dụng, và sáng tạo những gì mình đã học.
VI. Bổn phận thầy cô giáo
Đối với học trò, thầy cô giáo cũng có năm bổn phận:
Một là giảng dạy cho học trò thấy biết chân chánh, tư duy chân chánh, nói năng chân chánh, lời nói, ý nghĩ, và việc làm chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, tinh tấn chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, thiền định chân chánh. Hai là hướng dẫn phương pháp sáng tạo và giáo dục cho học trò. Ba là không che dấu kiến thức, hết lòng truyền trao kiến thức và kinh nghiệm sống cho học trò. Bốn là truyền trao thân giáo, khẩu giáo, ý giáo cho học trò. Năm là mong muốn học trò trở thành những người tài đức và giỏi hơn mình.
Lễ lạy phương Nam theo lời Đức Phật dạy có nghĩa là cả thầy và trò đều là những người đạo đức và gương mẫu biết trao truyền, tiếp nối, và ứng dụng kiến thức đạo học và thế học vào trong đời sống hằng ngày để làm lợi lạc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại. (O)
4. Phương Bắc tượng trưng cho bổn phận mình đối với thân quyến và bạn bè
VII. Bổn phận mình đối với thân quyến
Này Thiện Sinh, đối với thân quyến, mình có năm bổn phận: Một là khuyên thân quyến làm các việc lành. Hai là động viên thân quyến xa lánh các việc ác. Ba là dùng phương pháp tưới hoa để khen ngợi thân quyến. Bốn là viếng thăm thân quyến khi họ có bệnh. Năm là tận tình giúp đỡ thân quyến khi họ gặp hoàn cảnh nghèo khổ.
VIII. Bổn phận mình đối với bạn bè
Đối với bạn bè, mình cũng có năm bổn phận:
Một là giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn. Hai là không bỏ bạn khi gặp hoạn nạn. Ba là chơi với bạn tốt có thể giúp mình thành tựu trong cuộc sống dễ dàng. Bốn là khuyên bạn dừng lại và buông bỏ các việc bất thiện. Năm là giao lưu với bạn trong tinh thần đối thoại, góp ý, xây dựng, hoan hỷ, thông cảm, và bình đẳng.
Lễ lạy phương Bắc theo lời Đức Phật dạy có nghĩa là tỏ lòng khoan dung, lân mẫn, thương yêu, và hiểu biết với thân nhân và bạn bè. (O)
5. Phương Trên tượng trưng cho cư Sĩ và xuất Sĩ
IX. Bổn phận cư Sĩ
Này Thiện Sinh, đối với xuất Sĩ, cư Sĩ có năm bổn phận: Một là chọn Tam Bảo làm nơi nương tựa tâm linh vững chắc nhất cho đời mình. Hai là học, hiểu, thực hành, và áp dụng Năm Điều Đạo Đức vào trong đời sống hằng ngày. Ba là khéo léo phát khởi thiện tâm tạo phước, cúng dường, và hộ trì Tam Bảo. Bốn là không thần tượng bất cứ một thầy hay một sư cô cá nhân nào, mà hãy xem tất cả các vị xuất Sĩ tài đức đều là thầy và sư cô của mình. Năm là biết cách quán sát và chọn lọc những lời dạy nào tốt hay không tốt sau khi đem ra áp dụng và thực hành những lời dạy đó phù hợp với số đông ngay trong đời sống hiện tại thì nên thực hành, và ngược lại, thì nên từ bỏ chúng.
X. Bổn phận xuất Sĩ
Đối với cư Sĩ, vị xuất Sĩ cũng có năm bổn phận: Một là giảng dạy Năm Điều Đạo Đức và Bát Thánh Đạo cho người cư Sĩ. Hai là hướng dẫn cho người cư Sĩ Pháp Học gồm có Đạo Đức, Thiền Định, và Trí Tuệ, và Pháp Hành gồm có Thiền Chỉ và Thiền Quán. Ba là hướng dẫn cho người cư Sĩ phát tâm hoan hỷ trước khi cúng dường, hoan hỷ trong khi cúng dường, và hoan hỷ sau khi cúng dường. Bốn là hướng dẫn cho người cư Sĩ giữ vững niềm tin chánh tín đối với Tam Bảo. Năm là hướng dẫn cho người cư Sĩ biết cách thực hành niệm ân Đức Phật, niệm ân chánh Pháp, và niệm ân Tăng đoàn.
Lễ lạy phương Trên theo lời Đức Phật dạy có nghĩa là cả xuất Sĩ và cư Sĩ quyết tâm học, hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày để đem lại hoa trái an vui và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại. Sự hộ trì chánh pháp và hoằng dương chánh pháp giữa những người cư Sĩ và xuất Sĩ gắn kết với nhau rất mật thiết. (O)
6. Phương Dưới tượng trưng cho nhân viên và người điều hành
XI. Bổn phận nhân viên
Này Thiện Sinh, đối với người điều hành, nhân viên có năm bổn phận:
Một là đi làm việc sớm và đúng giờ. Hai là có trách nhiệm làm xong công việc khi được giao phó. Ba là làm việc thứ tự, gọn gàng, ngăn nắp, có phương pháp, và chánh niệm. Bốn là không trộm cắp và giữ gìn tài sản chung. Năm là tôn trọng, kính mến, và bảo vệ uy tín và danh giá cho người điều hành.
XII. Bổn phận người điều hành
Đối với nhân viên, người điều hành cũng có năm bổn phận: Một là giao việc làm phù hợp với khả năng và trình độ cho nhân viên. Hai là cung cấp cho nhân viên tiền lương hoặc đồ ăn uống. Ba là chăm sóc và thăm hỏi chu đáo khi nhân viên có bệnh. Bốn là khen thưởng và đánh giá các thành tích xuất sắc cho nhân viên. Năm là cho nhân viên nghỉ phép thích hợp.
Lễ lạy phương Dưới theo lời Đức Phật dạy có nghĩa là người điều hành và nhân viên luôn có bổn phận và trách nhiệm với nhau cả vật chất lẫn tinh thần. (O)
Sáu phương được giảng dạy trên đây, Đức Thế Tôn ân cần khuyên bảo chàng Thiện Sinh những điều tinh yếu qua bài kệ tóm tắt như sau:
Cha mẹ là phương Đông
Sư trưởng là phương Nam
Vợ chồng là phương Tây
Thân quyến là phương Bắc
Nhân viên là phương Dưới
Xuất Sĩ là phương trên
Người hành giả mẫu mực
Kính lễ các phương ấy.
Khi sống trong an lạc
Khi chết trong an vui
Người trí tu như vậy
Sống vì mình vì người
Luôn đem lại an lành
Cho nhân gian trần thế. (O)
Trên lộ trình tu tập
Nương theo người bạn lành
Học theo người đức hạnh
Đem lợi lạc quần sanh.
Sống ở nhân gian này
Mình biết làm điều lành
Khuyên người làm điều lành
Hòa bình luôn thêm lớn.
Người Phật tử chân chánh
Thân làm các việc lành
Ý nghĩ các việc lành
Miệng nói các việc lành
Thân tâm thường tĩnh lặng. (O)
Hành giả đi vào đời
Như hoa nở khắp nơi
Trang nghiêm và tự tại
Làm an lạc cuộc đời.
Như Ong đến tìm hoa
Bám hoa để hút mật
Hút xong rồi bay đi
Hoa vẫn còn nguyên vẹn.
Siêng hộ trì chánh pháp
Siêng ủng hộ Tăng Đoàn
Cúng dường bậc Ứng Cúng
Là phước điền vô thượng.
Những việc đã nêu trên
Hành giả luôn thực hiện
Phước đức càng thêm lớn
Như nước sông về biển. (O)
Sáu Phương được Đức Phật giảng dạy trên đây là sáu mối quan hệ đạo đức tương tức với nhau rất mật thiết giữa gia đình, học đường, và xã hội, chứa đựng các giá trị nhân văn, nhập thế, nhân quả, bổn phận, và trách nhiệm thật là sâu sắc, giúp mọi người ý thức sống an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện tại. Những lời dạy của Đức Phật mang ý nghĩa rất thiết thực và thù thắng vượt thoát thời gian và không gian. Dù sống ở đâu, nơi nào, và quốc gia nào trên thế giới, nếu mọi người khéo áp dụng Kinh Thiện Sanh này vào trong đời sống hằng ngày đúng nơi, đúng lúc, và đúng đối tượng, thì chắc chắn họ sẽ đem lại nhiều chất liệu tu tập, an vui, và hạnh phúc cho nhiều người.
Sau khi nghe Đức Phật giảng dạy xong, chàng Thiện Sanh vô cùng hoan hỷ thành kính đảnh lễ Đức Phật và nói lên những lời ý nghĩa, ca ngợi, tôn kính, và ẩn dụ như sau:
“Thật vi diệu thay, Bạch Đức Thế Tôn! Thật vi diệu thay, Bạch đức Thiện Thệ! Giáo pháp do chính Ngài khéo thuyết giảng rất thiết thực hiện tại, cụ thể, và rõ ràng, đã thấm sâu vào tâm con, làm cho tâm con mềm ra, hiền ra, và thiện ra. Phật pháp đã khai mở tâm con bừng sáng ra, như người dựng đứng dậy những gì bị ngã xuống, lật ngửa lên những gì bị úp, mở toang ra những gì bị đóng kín, phô bày ra những gì bị che giấu, chỉ đường cho những kẻ bị lạc lối, đem ánh sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể nhìn thấy rõ mọi sự vật tường tận, như đi trong đêm tối gặp được ánh sáng, như người mù, mắt được sáng ra. Bằng nhiều phương pháp giảng dạy khéo léo, Đức Thế Tôn đã giúp cho con nhìn thấy rõ mọi sự vật sáng tỏ như ánh sáng ban ngày. (O)
Cúi xin Đức Thế Tôn từ bi tiếp nhận cho con làm đệ tử tại gia. Từ này cho tới trọn đời, con quyết tâm nương tựa Đức Phật, chánh Pháp, và Tăng đoàn, và phát nguyện thực hành Năm Điều Đạo Đức trọn vẹn: Một là tôn trọng sự sống, phát triển tâm từ bi, bảo vệ môi trường thiên nhiên, và nuôi dưỡng hòa bình nội tâm bằng cách ý thức không sát hại sinh mạng. Hai là xả bỏ tâm bỏn xẻn, tham lam, phát tâm bố thí, cúng dường, và hộ trì Tam Bảo bằng cách ý thức không lấy của không cho. Ba là xây dựng hạnh phúc gia đình, sống chung thủy hợp pháp với người hôn phối bằng cách ý thức không tà hạnh, ngoại tình, và không xâm phạm tình dục của trẻ em. Bốn là nói lời chân thật, hòa hợp, ái ngữ, và dễ thương, đem lại lòng tin cậy và uy tín lẫn nhau bằng cách ý thức không nói dối. Năm là bảo vệ sức khỏe tráng kiện, tinh thần minh mẫn, đem lại an vui và hạnh phúc cho gia đình, học đường, và cho xã hội bằng cách ý thức không sử dụng các chất say, các chất ma túy, kể cả các việc hút thuốc lá, chơi cờ bạc, chơi các trò chơi game bạo động trực tuyến.”
Khi ý thức tránh xa các chất độc tố này, Pháp học, pháp hành, pháp hỷ, và Pháp lạc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm. Sau khi chính thức trở thành người đệ tử thuần thành của Đức Phật, cư sĩ Thiện Sinh vô cùng hoan hỷ giữ vững niềm tin nương tựa Tam Bảo, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày để đem lại nhiều lợi lạc cho pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh này.
Tâm Kinh Tuệ Giác Qua Bờ
Avalokita, khi quán chiếu sâu sắc
Với tuệ giác qua bờ,
Bỗng khám phá ra rằng:
Năm uẩn đều trống rỗng.
Giác ngộ được điều đó,
Bồ-tát vượt ra được
Mọi khổ đau ách nạn.
Này Śāriputra,
Hình hài này là không,
Không là hình hài này;
Hình hài chẳng khác không,
Không chẳng khác hình hài.
Điều này cũng đúng với
Cảm thọ và tri giác,
Tâm hành và nhận thức.
“Này Śāriputra,
Mọi hiện tượng đều không,
Không sinh cũng không diệt,
Không có cũng không không,
Không dơ cũng không sạch,
Không thêm cũng không bớt.
Cho nên trong cái không,
Năm uẩn đều không thể
Tự riêng mình có mặt.
Mười tám loại hiện tượng
Là sáu căn, sáu trần
Và sáu thức cũng thế;
Mười hai khoen nhân duyên
Và sự chấm dứt chúng
Cũng đều là như thế;
Khổ, tập, diệt và đạo
Tuệ giác và chứng đắc
Cũng đều là như thế. (O)
Khi một vị bồ-tát
Nương tuệ giác qua bờ
Không thấy có sở đắc
Nên tâm hết chướng ngại.
Vì tâm hết chướng ngại
Nên không còn sợ hãi,
Đập tan mọi vọng tưởng,
Đạt niết-bàn tuyệt hảo.
Chư Phật trong ba đời
Nương tuệ giác qua bờ
Đều có thể thành tựu
Quả chánh giác toàn vẹn.
Vậy nên phải biết rằng
Phép tuệ giác qua bờ
Là một linh chú lớn,
Là linh chú sáng nhất,
Là linh chú cao tột,
Không có linh chú nào
Có thể so sánh được.
Là tuệ giác chân thực
Có khả năng diệt trừ
Tất cả mọi khổ nạn.
Vậy ta hãy tuyên thuyết
Câu linh chú qua bờ:
“Gate, gate, pāragate, pārasamgate, bodhi, svaha.” (3 lần, O)
“Vượt qua, vượt qua, khéo vượt qua, vượt qua tới bờ bên kia, đạt giác ngộ vui lắm thay.” (3 lần, O)
NƯƠNG TỰA TAM BẢO
Nương Tựa Phật Bảo
Con về nương tựa Phật, Người đưa đường chỉ lối từ, bi, và trí huệ cho con trong cuộc đời.
Đã về nương tựa Phật, con đang có hướng đi sáng đẹp cho con trong cuộc đời.
Về nương Phật trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ-đề. (O)
Nương Tựa Pháp Bảo
Con về nương tựa Pháp, con đường của thực tập hòa bình, an vui, hạnh phúc, thương yêu, và hiểu biết cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.
Đã về nương tựa Pháp, con đang học hỏi và tu tập con đường Thánh gồm có đạo đức, thiền định, và trí tuệ tương tức mật thiết với chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa. (O)
Nương Tựa Tăng Bảo
Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người tu tập nguyện sống cuộc đời đạo đức, hòa hợp, và tỉnh thức cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.
Đã về nương tựa Tăng, con đang được Tăng thân soi sáng, dìu dắt, và nâng đỡ trên con đường thực tập.
Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (O)
Hồi Hướng
Trì tụng Kinh thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền
Pháp môn xin nguyện học
Ơn nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên.
Nguyện sanh về Tịnh Độ
Sen nở thấy vô sanh
Chư Bụt và Bồ Tát
Là những bạn đồng hành.
Nguyện dứt hết phiền não
Cho trí tuệ phát sanh
Cho tội chướng tiêu tán
Quả giác ngộ viên thành. (O)
Phát nguyện tinh tấn và lạy tạ ơn Tam Bảo
Đệ tử Gotama, luôn luôn tự tỉnh thức, không luận ngày hay đêm, thường tưởng niệm Phật Đà. Nam Mô Phật Đà Da. (O, 1 lạy)
Đệ tử Gotama, luôn luôn tự tỉnh thức, không luận ngày hay đêm, thường tưởng niệm Chánh Pháp. Nam Mô Đạt Mạ Da. (O, 1 lạy)
Đệ tử Gotama, luôn luôn tự tỉnh thức, không luận ngày hay đêm, thường tưởng niệm Tăng Đoàn. Nam Mô Sanghaya. (O, 1 lạy)
Bồ đề diệu pháp biến trang nghiêm.
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Hồi Hướng
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo. (O)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần, O)
Biên soạn và chuyển ngữ – Thích Trừng Sỹ
[1] Xem Trường A Hàm, (Dīrghāgama), Phần II, Kinh số 16, và Kinh Bộ Kinh (Dīgha Nikaya), Kinh số 31.