11 lượt xem

Vấn đáp: Kế thừa và phát triển việc hoàn thiện Thánh Điển Tam Tạng tiếng Việt, di sản văn hóa tâm linh Phật giáo

HT. Thích Như Điểu Điển           Thích Trừng Sỹ             Sư Cô Khánh Năng         

I. Giới thiệu: Tưởng niệm và Ghi nhận
Nam Mô A Di Đà Phật
Xin cảm ơn những lời giới thiệu của Sư Cô và tôi sẽ nói một vài câu tiếng Anh để chào hỏi các vị thính giả, sau đó tôi sẽ trình bày bằng tiếng Việt và Thượng Tọa Tiến Sĩ Thích Trừng Sỹ sẽ dựa theo câu trả lời bằng tiếng Việt của tôi để dịch dùm ra Anh ngữ, vì khả năng tiếng Anh của tôi cũng giới hạng. Hơn nữa, khi trả lời bằng tiếng Việt, tôi có nhiều thời gian để suy nghĩ và trả lời câu hỏi của Sư Cô sâu sắc hơn và xin bắt đầu câu hỏi vậy. 
1. Công trình phiên dịch Tam Tạng Việt Nam là một nỗ lực rất lớn do Trưởng lão Hòa thượng Tuệ Sỹ dẫn dắt. Xin Thầy có thể chia sẻ một vài suy nghĩ về tầm nhìn và vai trò của Trưởng lão trong việc dẫn dắt công trình quan trọng này không?
Trả lời: Sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập vào năm 1964 tại chùa Xá Lợi Sài Gòn Việt Nam thì Viện Tăng Thống đã nghĩ ngay đến việc thành lập một Hội Đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam và vào các ngày 20,21,22.10 năm 1973 tại Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn gồm 18 vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Viện Tăng Thống, trong đó có Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. 
Từ năm 1973 đến sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 vì thế sự nhiễu nhương, nên chư Tôn Đức trong Hội Đồng Phiên dịch cũng chỉ dịch được một số Kinh, Luật, Luận tiêu biểu mà thôi. Mãi cho đến ngày 3 tháng 12 năm 2021 một Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời mới được thành lập với Giáo Sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát làm cố vấn. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ ở Việt Nam làm Chủ Tịch, HT. Thích Như Điển ở Đức Quốc làm Chánh Thư Ký,  HT. Thích Thái Hòa làm Phó Thư Ký Quốc nội, và HT. Thích Nguyên Siêu làm Phó Thư Ký Hải Ngoại. Ngoài ra còn nhiều Ban khác nữa.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị Đại Sư, một học giả Phật Giáo rất lỗi lạc về những phương diện như rành nhiều cổ ngữ và sinh ngữ như: Hán, Sanskrist, Pali, Tây Tạng, Anh, Pháp, Đức v.v…và Ngài cũng là cựu giảng sư Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn trước năm 1975 cũng như của nhiều trường Cao Đẳng Phật Giáo khác ở trong nước. Vì vậy, vai trò Chủ Tịch của Ngài rất quan trọng từ khi bắt đầu thành lập Hội Đồng phiên dịch Tam Tạng Thánh Điển lâm thời cho đến ngày Ngài viên tịch vào 23.11.2023 vừa qua. 
2. Với tư cách là người kế vị, Thầy nhìn nhận như thế nào về di sản tri thức, hoài bão tâm linh, và sự cống hiến của Trưởng lão Hòa thượng Tuệ Sỹ cho Phật giáo Việt Nam qua công trình này?
Ngày 21.9.2023 Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ đã ký một văn bản với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời về đế án Phiên Dịch Đại Tạng Kinh sau khi HT Tuệ Sỹ viên tịch và nội dung văn bản nầy khá chi tiết. Tôi sẽ tuần tự trả lời tiếp những câu hỏi của Sư Cô sau và một Ủy Ban Phiên Dịch Trung Ương đã được Hòa Thượng Tuệ Sỹ đại diện cho Viện Tăng Thống chuẩn y. 
Di sản tri thức, hoài bão tâm linh, và sự cống hiến của Hòa Thượng Tuệ Sỹ có thể đọc phần trích dẫn nầy trong các Tổng Lục cũng như phần mở đầu của mỗi quyển Thanh Văn Tạng như sau:
Để tri niệm ân sâu của chư lịch đại Tổ Sư và chư vị Tôn túc trong Hội Đồng Phiên Dịch năm 1973 trong sự nghiệp hoằng truyền chánh đạo, Hội Đồng Hoằng Pháp nguyện góp phần công đức, toàn tâm ủng hộ, cúng dường tâm lực, trí lực để Đại Tạng Kinh Việt Nam chuẩn mực được lần lượt ấn hành, khởi đầu từ Thanh Văn Tạng, tháng 1 năm 2022, cho đến khi hoàn tất Bồ Tát Tạng và Mật Tạng trong thập niên tới….(Hội Đồng Phiên Dịch Lâm Thời cẩn bạch)
II. Tầm nhìn và Khởi nguyên
3. Động lực ban đầu để khởi xướng công trình phiên dịch Tam Tạng Việt Nam là gì? 
Là sự tiếp nối công trình Phiên Dịch Tam Tạng của Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Thánh Điển Việt Nam từ năm 1973.
4. Công trình này đã kế thừa và phát triển công việc của Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng năm 1973 như thế nào?
Gần đây vào năm 1973 một Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng lần đầu tiên trong lịch sử được thành lập. Chủ Tịch: HT Thích Trí Tịnh, Tổng Thư Ký: HT Thích Quảng Độ, với các thành viên quy tụ tất cả các Hòa Thượng, các Thượng Tọa, Đại Đức đã có công trình phiên dịch và có uy tín trên phương diện nghiên cứu Phật học, dưới sự chỉ đạo của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Chương trình phiên dịch được soạn thảo trên quy mô rộng lớn, nhưng do bởi hoàn cảnh chiến tranh cho nên chỉ mới thực hiện được một phần nhỏ. Một phần của thành quả nầy về sau được ấn hành năm 1993 bởi Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, trực thuộc GHPGVN, dưới danh hiệu: Đại Tạng Kinh Việt Nam. 
Thành quả nầy là các kinh thuộc bộ A Hàm được phân công bởi hội đồng phiên dịch Tam Tạng, trong đó, Trường A Hàm và Tạp A Hàm do HT. Thiện Siêu, HT. Trí Thành, và HT. Tuệ Sỹ thuộc Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang, Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm do HT. Thích Thanh Từ, HT. Bửu Huệ, HT. Thiền Tâm thuộc viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm Sài Gòn. Ngoài ra, một phần công đức khác cũng đã được hoàn thành như:
HT. Trí Nghiêm: Đại Bát Nhã (Huyền Trang dịch 600 cuốn) thuộc bộ Bát Nhã. HT. Trí Tịnh: Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (Đại Phẩm) thuộc bộ Bát Nhã, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (La Thập dịch) thuộc bộ Pháp Hoa, Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Bản bát thập) thuộc bộ Hoa Nghiêm và toàn bộ Đại Bảo Tích.
Các bản dịch nầy cũng đã được ấn hành nhưng do bởi đệ tử của các Ngài chứ chưa đưa vào Đại Tạng Kinh Việt Nam….”(Trích phần Hậu Từ của giới thiệu công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh)
Khi Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ tiếp nối phần phiên dịch nầy thì Ngài đã cho xuất bản vào đầu năm 2022 gồm 24 tập Thanh Văn Tạng và 5 Tổng Lục về Kinh, Luật và Luận. Đến ngày giáp năm của HT Tuệ Sỹ vào tháng 11 năm 2024 vừa qua Ủy Ban Phiên Dịch Đại Tạng Kinh của chúng tôi cho xuất bản tiếp 8 tập nữa và năm nay nhân lễ Đại Tường của HT Tuệ Sỹ vào đầu tháng 12 năm 2025 nầy sẽ cho xuất bản một số tập nữa để cúng dường lên Giác Linh của Ngài.
III. Triết lý Phiên dịch và Phương pháp Học thuật
5. Những nguyên tắc cốt lõi nào đã định hướng cho phương pháp phiên dịch của công trình?
Dựa vào công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam năm 1973 và của Hòa Thượng Tuệ Sỹ đã hình thành trước đây, chúng tôi tiếp nối phần việc nầy và những vị nào chuyên về Kinh, Luật và Vi Diệu Pháp sẽ được phân công tùy theo năng lực của những dịch giả này.
6. Nhóm phiên dịch làm thế nào cân bằng và trung thành văn bản gốc và bản dịch các độc giả Việt Nam trong thời hiện đại dễ tiếp cận?
Trong quá khứ và ngay cả hiện tại tất cả các bản dịch đều căn cứ vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán để dịch sang Việt ngữ, nhưng cũng có nhiều Kinh Văn cần phải so sánh lại với nguyên bản tiếng Sanskrist hay Pali hoặc Tây Tạng để đối chiếu. Khi dịch, nếu các dịch sư nghi ngờ về tính xác thực hoặc ý nghĩa của bản Hán cổ, đặc biệt là những thuật ngữ cổ, thì cần chú ý dịch chúng sang tiếng Việt hiện đại cho dễ hiểu. Đồng thời, vẫn phải giữ nguyên bản Hán cổ trong bản dịch để có thể đối chiếu khi cần.
7. Khi có sự khác biệt giữa các bản dịch Hán tạng và văn bản gốc Pāli hoặc Phạn văn, nhóm phiên dịch xử lý như thế nào?
Chúng tôi sẽ chọn lọc các bản dịch đã được đối chiếu với các nguồn tiếng Phạn, Pali hoặc Tây Tạng (nếu có) để tạo ra bản dịch đáng tin cậy như bản dịch tiếng Hán cổ. Đồng thời, bản tiếng Việt sẽ được lựa chọn hoặc biên tập theo đánh giá sâu sắc của người dịch.
8. Khi các nguồn Phạn văn gốc bị thất lạc, những phương pháp nào được sử dụng để đảm bảo bản dịch tiếng Việt giữ được sự chính xác nhất có thể?
Do sự khác biệt giữa các truyền thống văn bản của các trường phái khác nhau, việc hiểu được những giáo lý nguyên thủy chung cho tất cả mọi người đòi hỏi một quá trình nghiên cứu so sánh sâu rộng – một công việc nằm ngoài khả năng hiện tại của các dịch giả. Tuy nhiên, bất cứ khi nào có thể, những khác biệt giữa các truyền thống văn bản khác nhau sẽ được ghi lại và so sánh. Trong những trường hợp như vậy, dịch giả sẽ tham khảo các kinh điển song song, các bản dịch tiếng Trung khác nhau, và suy ra các hình thức nguyên bản có thể có trong văn bản tiếng Phạn để hiệu đính. Tất cả các chỉnh sửa như vậy sẽ được ghi chú trong phần chú thích.
IV. Cơ cấu Tổ chức và Vận hành
9. Xin Thầy có thể cho biết tổng quan về cơ cấu tổ chức của công trình, đặc biệt là vai trò của Ban Phiên dịch và Ban Xuất bản không?
Hiện tại chúng tôi có những Hội Đồng vả tổ chức gồm những vị ở trong và ngoài nước như sau:
A. Hội Đồng Hoằng Pháp gồm: Chứng Minh, Cố Vấn Chỉ Đạo, Chánh Thư Ký, Phó Thư Ký và thành viên.
B. Ban Phiên Dịch và Trước Tác gồm: Cố Vấn kiêm Trưởng Ban (Hiện tại là Chủ Tịch), Phó Ban (Chánh Thư Ký quốc nội và Phó Thư Ký ngoại quốc), Phụ tá, thư ký, Ban Viên. (Ban nầy trực thuộc Viện Tăng Thống GHPGVNTN)
C. Ban Truyền Bá Giáo Lý của các châu lục gồm: Úc, Mỹ, Canada và Âu Châu (Ban nầy hoạt động độc lập ở ngoại quốc).
D. Ban Báo Chí và xuất Bản gồm: Trưởng Ban, Phó Ban, Thư Ký và Ban Viên.
F. Ban Bảo Trợ cũng giống như thành phần bên trên. (Hội Đồng Hoằng Pháp mỗi năm Đại Hội một lần).
Ngoài ra Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh cũng đã được thành lập gồm:
Chủ tịch: HT. Thích Nguyên Siêu, Thư ký TT. Thích Hạnh Tuệ, Thủ quỹ Cư Sĩ Tâm Quang Vĩnh Hảo và Ban ấn hành gồm các vị cư sĩ dấn thân.
Vai trò của Ban Phiên Dịch được phân chia ra cho những vị chuyên môn về Kinh, Luật, Luận và cứ 3 tháng họp một lần để chuẩn bị cho công việc trong thời gian tới. Ban xuất bản Đại Tạng Kinh thì mỗi năm sẽ cho xuất bản một lần và Ban xuất Bản của Hội Đồng Hoằng Pháp thì tùy theo nhu cầu cho xuất bản những Kinh sách của những vị xuất gia hay cư sĩ ở trong và ngoài nước đúng với chủ trương của Hội Đồng Hoằng Pháp.
10. Làm thế nào để duy trì sự nhất quán và chất lượng giữa nhiều nhóm phiên dịch khác nhau?
Việc nầy cũng không đơn giản. Sau khi các vị dịch sư dịch xong một bản kinh, luật, hay luận sẽ đưa qua Ban chuyết văn. Ban chuyết văn duyệt xong đưa qua Hòa Thượng Chánh Thư Ký phụ trách phần giáo nghĩa. Sau khi HT Chánh Thư ký đọc lại và có ý kiến, sẽ gửi lại cho các vị dịch sư. Dịch sư xem lại lần cuối và đoạn kế tiếp là dàn trang và chuẩn bị in ấn.
11. Những nỗ lực nào đang được thực hiện để đào tạo các dịch giả mới về các cổ ngữ như Pāli, Phạn, Hán cổ và Tạng văn?
Khi HT. Tuệ Sỹ còn, thì Ban Bảo Trợ đã bảo trợ cho Giáo Sư Đỗ Quốc Bảo (Đức) giảng dạy 2 năm tiếng Phạn qua hệ thống Online trên Zoom. Số được đào tạo chừng 30 vị cả cư sĩ lẫn tu sĩ. Những vị nầy trong hiện tại có thể dịch trực tiếp một số bản Kinh bằng Phạn ngữ ra Việt ngữ.
Gần đây, có Ni Sư TN. Thanh Trì đảm trách phân dạy Phạn Ngữ cho độ 10 đến 15 Tăng Ni và Cư Sĩ ở trình độ cao. Có thể dịch những bản văn Phạn ngữ trực tiếp ra Việt ngữ, rất khả quan.
Về Pali trong hiện tại cũng có nhiều Tăng Ni đang tham học tại các nước Nam Tông Phật Giáo, nhưng Thượng tọa Chánh Thân (Hoa Kỳ), dịch Sư nổi bậc, đã từng sống ở Tích Lan, dịch thẳng từ Pali sang tiếng Việt. Về Tạng ngữ, thì HT Tuệ Sỹ cũng như chúng tôi đã trực tiếp gặp Thầy Kuso Geshe tại Long Beach, U.S.A., để mong Thầy giúp cho phần đào tạo tiếng Tây Tạng cùng với Ni Sư Khánh Năng, nhưng phần nầy chưa thực hiện được và sẽ thực hiện trong thời gian tới.
12. Những thành tựu chính của Hội đồng Phiên dịch Trung ương trong hai năm qua là gì?
Trong hai năm qua chúng tôi đã tiếp tục cho dịch và xuất bản 8 tập Thanh Văn Tạng gồm cả Kinh, Luật và Luận kế tục phần Thanh Văn Tạng đợt 1 đã ấn hành năm 2022 và năm 2025 nầy. Chúng tôi cũng sẽ cho xuất bản một số Kinh, Luật, Luận tiếp theo của phần Thanh Văn Tạng. Tổng số tập đã in của Bộ Thanh Văn như sau: 24 tập từ đợt đầu tiên, cộng với 5 tập Tổng Mục lục (được biên soạn trong thời Hòa Thượng Tuệ Sỹ) và 8 tập bổ sung được xuất bản vào năm 2024. Hiện nay, Śrāvaka Piṭaka gồm có 32 tập và 5 tập Tổng Mục lục.
13. Hội đồng dịch thuật trung ương hoạt động như thế nào — từ lãnh đạo và lập kế hoạch đến quản lý công việc dịch thuật hàng ngày?
Chúng tôi tích cực cung thỉnh những vị dịch sư có uy tín để đảm nhận phần dịch thuật và cứ 3 tháng họp để tổng kết một lần về những Kinh, Luật, Luận đã được dịch xong và cuối mỗi năm là thời điểm dự định sẽ cho xuất bản một số bản đã được dịch.
14. Có sự khác biệt lớn nào giữa Công trình phiên dịch Tam Tạng Việt Nam hiện tại của Hội đồng Phiên dịch Trung ương với các bản dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam trước đây do các tổ chức Phật giáo Việt Nam khác thực hiện không?
Dĩ nhiên là có. Ví dụ như Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do cố HT Thích Tịnh Hạnh chủ trương không cho dịch phần Mật Tạng. Trái lại cố HT Thích Tuệ Sỹ thì chủ trương cho dịch cả những gì thuộc về Thanh Văn thì cho vào Thanh Văn Tạng. Những Kinh Văn nào thuộc Bồ Tát thừa thì đưa vào Bồ Tát Tạng và những Kinh Văn nào thuộc về Mật Giáo thì đưa vào Mật Tạng v.v…
V. Thách thức và Giải pháp
15. Những thách thức lớn nhất mà công trình phải đối mặt là gì—về mặt học thuật, kỹ thuật, hay tổ chức?
Với những dịch sư tận tụy thì luôn muốn cống hiến phần dịch của mình chuẩn mực nhất và dĩ nhiên là cần rất nhiều thời gian. Trong hiện tại, có hệ thống AI (Trí tuệ nhân tạo) có thể phụ giúp được việc nầy để dịch cho nhanh chóng; nhưng đa phần chưa được sự ủng hộ triệt để, vì các vị dịch sư quan niệm rằng chữ Hán có nhiều chữ đồng âm dị nghĩa mà AI không thể phân biệt được. Vả lại dò lại soát lỗi đã dịch còn tốn công hơn là trực dịch nữa. Nên vấn đề nhờ hỗ trợ của AI chưa nghĩ tới.
16. Các lỗi hoặc những điểm mơ hồ trong các nguồn Hán văn gốc được xác định và xử lý như thế nào trong quá trình phiên dịch?
Việc này tùy thuộc vào quyết định của từng dịch sư, đồng thời họ sẽ tham khảo thêm nhiều nguồn tư liệu khác khi gặp những điểm nghi ngờ. Chẳng hạn, các bản dịch sang Hán văn cổ thường không đồng nhất. Ít nhất, từ thời Ngài Huyền Trang đời nhà Đường, các dịch sư đã phải đối chiếu với nguyên bản tiếng Phạn để bảo đảm bản dịch chính xác hơn. Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian để tra cứu và kiểm chứng.
VI. Hợp tác và Hòa nhập
17. Công trình đã thu hút sự tham gia của chư Tăng, Ni và cư sĩ từ khắp Việt Nam và trên thế giới như thế nào?
Hiện nay, ngoài các đệ tử và học trò của Hòa thượng Tuệ Sỹ đang đảm nhận công việc dịch thuật, chúng tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm thêm những người tham gia. Chúng tôi hy vọng rằng trong tương lai gần, thế hệ Tăng Ni trẻ và các cư sĩ sẽ góp phần tích cực vào việc dịch thuật Đại Tạng Kinh Việt Nam này.
18. Theo Thầy, sự hợp tác liên tông phái có vai trò gì trong sự thành công của công trình này?
Trong những lần thưa chuyện với Hòa thượng Tuệ Sỹ khi Ngài còn tại thế, Ngài từng trả lời rằng: “Không phân biệt Tông phái, Giáo hội, tổ chức hay cá nhân nào, vì đây là công việc chung của Phật giáo Việt Nam, chứ không thuộc về bất cứ tổ chức nào riêng lẻ.” Mặc dù hiện nay, công việc này do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đề xướng, nhằm kế tục tinh thần phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam từ năm 1973.
19. Công trình hiện có đang hợp tác với các học giả hoặc viện nghiên cứu quốc tế không?
Việc dịch thuật này chỉ do các học giả và giáo sư người Việt Nam thực hiện, cả trong nước lẫn ở nước ngoài, và chưa có sự hợp tác với bất kỳ tổ chức Phật giáo nước ngoài nào. Tuy nhiên, sau hai lần xuất bản Thanh Văn Tạng gần đây, Hội đồng Ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam và Hội đồng Hoằng Pháp đã gửi tặng các ấn phẩm này đến tất cả các trường đại học Phật giáo ở châu Á, châu Âu, Mỹ, Úc, v.v., để sinh viên có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu.
VII. Định hướng Tương lai
20. Lộ trình dự kiến của công trình là gì, và những cột mốc quan trọng nào đã đạt được cho đến nay?
Cột mốc đã đạt được thì đã được trình bày bên trên rồi và Ủy Ban Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam dự định cứ mỗi năm sẽ cho ấn hành một số Kinh, Luật và Luận đã được dịch ra Việt ngữ.
21. Quý vị có kế hoạch xuất bản phiên bản kỹ thuật số của Tam Tạng Việt Nam không?
Việc nầy thì chưa nhưng cũng đã có một số Quý Phật Tử bắt đầu đọc Thanh Văn Tạng vào MP3 để lưu truyền đây đó cho những vị muốn nghe.
VII. Tác động và Ý nghĩa
22. Thầy hy vọng công trình này sẽ có tác động như thế nào đối với việc học hỏi, tu tập và nghiên cứu Phật giáo của Việt Nam?
Chỉ việc học thôi thì chưa đủ để giúp con người giác ngộ. Để mở cánh cửa giải thoát, chúng ta phải kết hợp việc học với việc hành trì. Bất cứ ai muốn thực hành đúng lời Phật dạy đều phải tìm đến Tam Tạng: đọc, tụng, nghe và nghiên cứu kỹ lưỡng, chỉ khi đó chúng ta mới hy vọng không đi chệch khỏi giáo lý của Đức Phật.
23. Thông điệp mà Thầy muốn công trình này truyền tải đến các thế hệ những người Việt Nam con Phật trong tương lai là gì?
Thế hệ thứ hai và thứ ba của người Việt sinh ra hải ngoại nhìn chung có thể nói và hiểu tiếng Việt, nhưng cách phát âm của họ thường nghe giống người nước ngoài. Khả năng đọc và viết tiếng Việt của họ rất hạn chế. Vì vậy, chúng tôi rất hy vọng rằng các bà mẹ Việt Nam sẽ dạy con mình đọc, viết, nói và hiểu tiếng Việt, vì điều này rất quan trọng. Đồng thời, các Anh Chị Huynh Trưởng của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở ngoại quốc cũng nên cố gắng sử dụng dạy tiếng Việt cho các em thì mới mong đọc được Đại Tạng Kinh nầy. Riêng những thế hệ kế thừa trong tương lai sinh ra ở Việt Nam thì chắc không cần đề cập đến. Tôi thực sự hy vọng các thế hệ tương lai nên bắt đầu đọc bất cứ khi nào có thể; nếu họ chỉ nhìn vào Tam Tạng mà không đọc, thì Kinh, Luật và Luận sẽ mãi mãi nằm trên kệ. Người Đức có câu tục ngữ: Ohne Anfang Ohne Ende (Không có cái bắt đầu thì sẽ không có cái kết thúc).
VIII. Tôn vinh di sản của Trưởng lão Hòa thượng Tuệ Sỹ
24. Với tư cách là người kế vị, Thầy đã có những hành động cụ thể nào để bảo tồn, phát huy và mở rộng tầm nhìn của Trưởng lão Hòa thượng Tuệ Sỹ?
Khi HT. Thích Tuệ Sỹ còn sanh tiền, qua sự đề nghị của một số vị Tôn Túc ở Hải Ngoại nhờ tôi truyền đạt việc cung thỉnh Ngài vào ngôi vị Tam Tạng Pháp Sư của Phật Giáo Việt Nam; nhưng Hòa thượng từ chối khéo và khiêm tốn trả lời rằng: “Các bậc Trưởng lão trước mình có nhiều công lao và đóng góp lớn hơn mình nữa, nhưng quý Ngài chưa ai dám nhận tước hiệu tôn phong này, thì làm sao mình dám nhận được.”
Nhưng theo tôi nghĩ, ở một thời điểm nào đó Ủy Ban Phiên Dịch Tam Tạng Việt Nam sẽ có văn thư đề nghị lên Viện Tăng Thống để ít nhất là truy phong 18 vị có công hàng đầu của việc dịch Kinh nầy lên ngôi vị Tam Tạng Pháp Sư Việt Nam trong thời gian tới.
25. Thầy đã gặp những thách thức nào khi đảm nhận vai trò lãnh đạo một công trình học thuật gắn liền với một bậc danh tăng như vậy?
Khi Hòa thượng Tuệ Sỹ còn chữa bệnh tại Nhật Bản vào những năm 2021–2022, Ngài đã gọi điện trực tiếp từ Nhật Bản sang Đức cho tôi và nhờ tôi một số việc. Tôi đã tùy thuận làm theo ý Ngài, chẳng hạn như vận động thành lập Hội đồng Hoằng pháp và sau đó là Ủy ban Phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam. Tôi có thưa với Ngài là những cổ ngữ như: Sansrist, Pali, Tây Tạng con không rành. Chỉ biết một số ngôn ngữ Tây phương cũng như Hán Văn và Nhật Ngữ làm sao đảm nhận được trách nhiệm nặng nề nầy?
Hòa Thượng đáp: “Việc này đã có người lo rồi. Thật vậy, tuy Hòa Thượng Tuệ Sỹ đã viên tịch gần hai năm rồi, nhưng công trình do Ngài sáng lập vẫn được nhiều bậc Tôn Túc và Cư Sĩ nhiệt tâm duy trì và phát triển cho đến ngày nay. Đây quả thực là một phước lành may mắn cho Phật giáo Việt Nam của chúng ta.”
26. Trong quá trình thực hiện, công trình có những hoạt động chính thức nào nhằm ghi nhận hay tôn vinh các đóng góp của Trưởng lão Hòa thượng Tuệ Sỹ không?
Không ai là không ngưỡng mộ Hòa Thượng Tuệ Sỹ cả. Chỉ tiếc rằng Ngài ra đi hơi sớm; nên Phật Giáo Việt Nam đã mất đi bậc Thầy tài và đức, một học giả và hành giả suốt đời tận tụy với Dân Tộc và Đạo Pháp. Do vậy, tôi hy vọng rằng việc đề nghị truy phong Ngài là Tam Tạng Pháp Sư của Phật Giáo Việt Nam trong thời gian tới cũng là một việc hợp pháp, trân trọng, và xứng đáng vậy.
IX. Kế thừa và Phát triển Lâu dài
27. Thầy có tầm nhìn như thế nào về việc duy trì, phát triển và hoàn thiện công trình này bởi các thế hệ tương lai?
Trong tiếng Pháp, có câu tục ngữ: “Que sera, sera” – nghĩa là “Điều gì đến thì sẽ đến”. Vì vậy, chúng ta nên thường xuyên đọc tụng Kinh Nhất Dạ Hiền Giả (131. Bhaddekaratta Sutta) để giữ tâm an tịnh và vững vàng trong những gì chúng ta đang làm trong hiện tại. Bởi vì bất cứ điều gì xảy ra vào ngày mai thực sự là kết quả của những gì chúng ta làm hôm nay.
28. Hiện tại, Thầy có đang cố vấn hay chuẩn bị một thế hệ học giả trẻ đủ khả năng tiếp nối tầm nhìn và chiều sâu của công trình này không?
Tục ngữ Hoa Kỳ có câu: “Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Muốn đi xa hãy nên đi chung”. Ủy Ban Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam chúng tôi đang ứng dụng điều nầy vào việc kế thừa cũng như đào tạo tiếp tục cho thế hệ trẻ, con đường mà chư vị Tôn Túc đã dày công xây dựng trong nhiều thế kỷ qua.
Xin cảm ơn bài phỏng vấn của Sư Cô.
Thích Như Điển
Facebook Comments Box

Trả lời